Tin mới
AN NHƠN:
Đề nghị bổ sung nhiều giống lúa lai mới vào cơ cấu giống lúa địa phương
Ông Đoàn Tuấn Sỹ, Phó Phòng Kinh tế huyện An Nhơn, cho biết: Trong thời gian qua, huyện An Nhơn đã phối hợp với các đơn vị sản xuất, kinh doanh giống lúa trong và ngoài tỉnh tổ chức sản xuất thử các giống lúa lai như: Nhị Ưu 838 dòng mới, TH 7-2, CT 16, TH 3-3, Nam Ưu 605, CNR 02, LN 111…
Nông dân An Nhơn thu hoạch lúa vụ Mùa. Ảnh: V.L
Qua khảo nghiệm, nhiều giống lúa lai mới tỏ ra thích nghi với điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng địa phương, ít bị sâu bệnh gây hại, cho năng suất đạt bình quân từ 70-90 tạ/ha, trong đó, giống lúa lai Nhị Ưu 838 dòng mới đạt tới 90 tạ/ha. Phòng Kinh tế huyện đã đề nghị Sở NN-PTNT bổ sung các giống lúa có triển vọng về năng suất, chất lượng vào cơ cấu giống lúa của huyện nhằm cho phép nông dân sản xuất đại trà.
Nông dân An Nhơn thu hoạch lúa vụ Mùa. Ảnh: V.L
Qua khảo nghiệm, nhiều giống lúa lai mới tỏ ra thích nghi với điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng địa phương, ít bị sâu bệnh gây hại, cho năng suất đạt bình quân từ 70-90 tạ/ha, trong đó, giống lúa lai Nhị Ưu 838 dòng mới đạt tới 90 tạ/ha. Phòng Kinh tế huyện đã đề nghị Sở NN-PTNT bổ sung các giống lúa có triển vọng về năng suất, chất lượng vào cơ cấu giống lúa của huyện nhằm cho phép nông dân sản xuất đại trà.
Nạn phá rừng làm nương rẫy ở Hoài Ân: Thực trạng và giải pháp
Theo báo cáo của Chi cục Kiểm lâm tỉnh về tình trạng phá rừng làm nương rẫy trên địa bàn tỉnh trong năm 2011, vi phạm nhiều nhất là ở huyện Hoài Ân, với 183 vụ, diện tích rừng bị thiệt hại là 123 ha. Hiện trạng rừng bị phá có kiểu trạng thái II a, thuộc phân cấp rừng phòng hộ.
Phá rừng làm nương rẫy có chiều hướng tăng
Đối tượng vi phạm là một số hộ đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống tại địa phương; đa số các vụ vi phạm tập trung ở các xã có diện tích đất rừng lớn như: Bok Tới, Đak Mang, Ân Nghĩa. Theo ông Nguyễn Văn Phong, Phó Giám đốc phụ trách Ban Quản lý Rừng phòng hộ (BQLRPH) huyện Hoài Ân: Đa số diện tích rừng bị xâm hại là rừng tự nhiên. Người dân địa phương lén lút vào rừng phát dọn thực bì dưới chân cây rừng, sau đó vài ngày thì dùng rựa, rìu chặt hạ những cây nhỏ và dùng cưa lốc (cưa xăng) có giảm thanh để hạ cây lớn. Phương thức phá rừng theo kiểu này sẽ làm cho rừng bị “hạ gục” rất nhanh. Trong khi đó, lực lượng bảo vệ rừng của BQLRPH rất mỏng. Việc tìm ra đối tượng vi phạm cũng rất khó đối với BQLRPH; chỉ khi chính quyền địa phương “ra tay”, các đối tượng vi phạm mới được phát hiện và xử lý.
Tình trạng phá rừng làm nương rẫy ở các huyện miền núi trong tỉnh ngày càng có chiều hướng tăng. Nếu không có giải pháp kiên quyết và kịp thời, trong tương lai gần, diện tích rừng của tỉnh ta sẽ bị thu hẹp, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái; lũ quét, hạn hán... xảy ra thường xuyên hơn; các loại động vật, thực vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng; ảnh hưởng lớn đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương.
Giải pháp nào?
Có thể thấy, đời sống kinh tế của người dân ở khu vực nông thôn, miền núi tỉnh ta dựa vào nông nghiệp là chính, nhu cầu về đất sản xuất rất lớn. Hơn nữa, đồng bào địa phương vẫn còn tập quán du canh nên ảnh hưởng đến công tác quản lý, bảo vệ rừng (QLBVR). Hạn chế tình trạng phá rừng làm nương rẫy nhưng vẫn giúp người dân phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống, qua đó, bảo vệ được rừng, tài nguyên rừng… là vấn đề cấp thiết.
Theo chúng tôi, trước hết cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của người dân, nhất là trên lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng (BV-PTR); làm cho người dân miền núi và trung du nhận thức rõ vai trò, vị trí, tầm quan trọng của rừng đối với cuộc sống con người, để người dân có ý thức tự giác tham gia vào công tác QLBVR. Đồng thời, tuyên truyền một số văn bản của Trung ương và địa phương về BV-PTR.
Bên cạnh đó, cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng ở địa phương cũng cần quan tâm tạo điều kiện về đất đai, quy hoạch đất sản xuất nương rẫy ổn định; tạo điều kiện về vốn, về kiến thức kỹ thuật khuyến nông, khuyến lâm… để người dân có điều kiện thay đổi phương thức sản xuất và cơ cấu cây trồng, vươn lên phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống; từ đó, có nhận thức đúng trong việc BV-PTR. Đồng thời, cần thực hiện tốt chính sách giao rừng và đất rừng, khoán bảo vệ rừng cho người dân quản lý, bảo vệ; qua đó, gắn quyền lợi và trách nhiệm của người dân trong QLBVR.
Lực lượng thừa hành pháp luật QLBVR, nhất là kiểm lâm địa bàn, phải bám sát cơ sở, bám sát địa bàn, nắm chắc tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; thường xuyên phối hợp với chủ rừng tuần tra, kiểm tra, phát hiện kịp thời những diện tích rừng mới bắt đầu chớm phá, lập biên bản, báo cáo nhanh cho chính quyền địa phương và hạt kiểm lâm theo thẩm quyền để củng cố hồ sơ, xử lý kịp thời. Nghiêm khắc xử lý những đối tượng phá rừng chuyên nghiệp, thường xuyên vi phạm Luật BV-PTR; nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì hoàn tất hồ sơ chuyển sang cơ quan điều tra để làm rõ và khởi tố đúng theo luật định.
Với những diện tích rừng phòng hộ chưa bị xâm hại, đề nghị đơn vị chủ quản tăng cường quản lý, bảo vệ, nếu để rừng của mình quản lý bị phá thì phải chịu trách nhiệm và bị xử lý kỷ luật nghiêm khắc, kể cả các ngành có trách nhiệm liên đới.
theo http://www.binhdinh.gov.vn
Phá rừng làm nương rẫy có chiều hướng tăng
Đối tượng vi phạm là một số hộ đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống tại địa phương; đa số các vụ vi phạm tập trung ở các xã có diện tích đất rừng lớn như: Bok Tới, Đak Mang, Ân Nghĩa. Theo ông Nguyễn Văn Phong, Phó Giám đốc phụ trách Ban Quản lý Rừng phòng hộ (BQLRPH) huyện Hoài Ân: Đa số diện tích rừng bị xâm hại là rừng tự nhiên. Người dân địa phương lén lút vào rừng phát dọn thực bì dưới chân cây rừng, sau đó vài ngày thì dùng rựa, rìu chặt hạ những cây nhỏ và dùng cưa lốc (cưa xăng) có giảm thanh để hạ cây lớn. Phương thức phá rừng theo kiểu này sẽ làm cho rừng bị “hạ gục” rất nhanh. Trong khi đó, lực lượng bảo vệ rừng của BQLRPH rất mỏng. Việc tìm ra đối tượng vi phạm cũng rất khó đối với BQLRPH; chỉ khi chính quyền địa phương “ra tay”, các đối tượng vi phạm mới được phát hiện và xử lý.
Tình trạng phá rừng làm nương rẫy ở các huyện miền núi trong tỉnh ngày càng có chiều hướng tăng. Nếu không có giải pháp kiên quyết và kịp thời, trong tương lai gần, diện tích rừng của tỉnh ta sẽ bị thu hẹp, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái; lũ quét, hạn hán... xảy ra thường xuyên hơn; các loại động vật, thực vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng; ảnh hưởng lớn đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương.
Giải pháp nào?
Có thể thấy, đời sống kinh tế của người dân ở khu vực nông thôn, miền núi tỉnh ta dựa vào nông nghiệp là chính, nhu cầu về đất sản xuất rất lớn. Hơn nữa, đồng bào địa phương vẫn còn tập quán du canh nên ảnh hưởng đến công tác quản lý, bảo vệ rừng (QLBVR). Hạn chế tình trạng phá rừng làm nương rẫy nhưng vẫn giúp người dân phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống, qua đó, bảo vệ được rừng, tài nguyên rừng… là vấn đề cấp thiết.
Theo chúng tôi, trước hết cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của người dân, nhất là trên lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng (BV-PTR); làm cho người dân miền núi và trung du nhận thức rõ vai trò, vị trí, tầm quan trọng của rừng đối với cuộc sống con người, để người dân có ý thức tự giác tham gia vào công tác QLBVR. Đồng thời, tuyên truyền một số văn bản của Trung ương và địa phương về BV-PTR.
Bên cạnh đó, cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng ở địa phương cũng cần quan tâm tạo điều kiện về đất đai, quy hoạch đất sản xuất nương rẫy ổn định; tạo điều kiện về vốn, về kiến thức kỹ thuật khuyến nông, khuyến lâm… để người dân có điều kiện thay đổi phương thức sản xuất và cơ cấu cây trồng, vươn lên phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống; từ đó, có nhận thức đúng trong việc BV-PTR. Đồng thời, cần thực hiện tốt chính sách giao rừng và đất rừng, khoán bảo vệ rừng cho người dân quản lý, bảo vệ; qua đó, gắn quyền lợi và trách nhiệm của người dân trong QLBVR.
Lực lượng thừa hành pháp luật QLBVR, nhất là kiểm lâm địa bàn, phải bám sát cơ sở, bám sát địa bàn, nắm chắc tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; thường xuyên phối hợp với chủ rừng tuần tra, kiểm tra, phát hiện kịp thời những diện tích rừng mới bắt đầu chớm phá, lập biên bản, báo cáo nhanh cho chính quyền địa phương và hạt kiểm lâm theo thẩm quyền để củng cố hồ sơ, xử lý kịp thời. Nghiêm khắc xử lý những đối tượng phá rừng chuyên nghiệp, thường xuyên vi phạm Luật BV-PTR; nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì hoàn tất hồ sơ chuyển sang cơ quan điều tra để làm rõ và khởi tố đúng theo luật định.
Với những diện tích rừng phòng hộ chưa bị xâm hại, đề nghị đơn vị chủ quản tăng cường quản lý, bảo vệ, nếu để rừng của mình quản lý bị phá thì phải chịu trách nhiệm và bị xử lý kỷ luật nghiêm khắc, kể cả các ngành có trách nhiệm liên đới.
theo http://www.binhdinh.gov.vn
Kinh tế Thị trường
Công nhân nữ đi làm thêm
Để cải thiện cuộc sống, một số công nhân nữ tự “tăng ca” sau giờ làm bằng nhiều nghề như bán hàng dạo, mở quán ăn nhỏ, giúp việc nhà, lượm ve chai… Mỗi ngày với các chị là một cuộc chạy đua với thời gian để mưu sinh.
“Tăng ca” mới đủ sống
Lương thấp, vật giá leo thang, dù phải làm quần quật cả ngày trong xưởng nhưng cuộc sống của nhiều nữ công nhân vẫn quá khó khăn, chật vật. Để cải thiện cuộc sống, họ phải tự “tăng ca” sau giờ làm bằng nhiều nghề .
Sáng nào cũng vậy, sau khi bàn giao công việc quét rác, chị Nguyễn Thị Lành, phường Hải Cảng, TP Quy Nhơn, lật đật trở về nhà mở nồi khoai lang đã luộc sẵn, đi lấy dừa, nước đậu cho vào hai giỏ xách nhựa rồi miệt mài đi khắp các phòng ở BVĐK tỉnh để bán. “Nhà tôi có 3 đứa con, đứa lớn đang học đại học ở TP Hồ Chí Minh, đứa nhỏ nhất mới học lớp 5. Lương công nhân không đủ nuôi 3 con ăn học. Trong khi đó, chồng tôi nghỉ mất sức, lương thấp lại bị tai biến. Gia đình khó khăn quá, tôi chưa biết xoay xở sao thì chị cùng xóm chỉ cho công việc này”, chị Lành tâm sự.
Bán dạo phải đi nhiều, bù lại thu nhập cũng được vài chục ngàn đồng/buổi. Chị Lành chỉ bán vào buổi sáng, buổi trưa về nhà lo cơm nước, việc nhà rồi ngủ bù đến tối lại làm công việc chính là quét rác. “Mới đầu đi bán dạo, tôi không quen, mệt mỏi lắm rồi phải cãi nhau tranh giành chỗ bán, rồi gặp người quen hỏi han đủ thứ, tôi cũng nản lòng. Nhưng nghĩ thương tụi nhỏ và sợ đứa con đang học ở TP Hồ Chí Minh phải nghỉ nửa chừng nên lại gắng gượng”, chị Lành bộc bạch.
May mắn hơn chị Lành, chị Lê Thị Xuyến, ở đường Phạm Ngũ Lão, TP Quy Nhơn mở một quán nhỏ bán trứng vịt lộn, chả ram nướng, chả cuốn, kem plan… tại nhà. Quán của chị chỉ mở sau 5 giờ chiều, có hôm mở trễ hơn vì chị còn phải chờ hết giờ ở xưởng gỗ tại Khu công nghiệp Phú Tài. Việc luộc trứng, lấy các đồ ăn để bán đều do chồng hoặc đứa con gái lớn của chị phụ trách. Các món chấm như ớt tương, muối gừng, nước mắm… chị đã chuẩn bị sẵn từ tối hôm trước. Có hôm, tôi tới mua vài trứng vịt lộn còn thấy chị mặc nguyên bộ quần áo công nhân, quần xắn ngang đầu gối, tất bật ra vào vì quán đông khách. Chị Xuyến kể: “Về nhà, chỉ kịp rửa tay chân là lao vào bán hàng. Vất vả thiệt nhưng có thêm đồng ra đồng vào cho tụi nhỏ đi học, lo cho ba mẹ ở quê…”. Trước đây, khi xưởng gỗ không có hàng làm, mỗi kỳ nghỉ có khi lên đến 2- 3 tháng, chị mới nghĩ ra việc mở thêm quán bán hàng này kiếm thêm thu nhập. Ngờ đâu, quán mở được vài tháng đã có khách quen, thu nhập cũng khá nên cả nhà cố gắng duy trì đến nay đã được 2 năm. “Khi dọn dẹp quán, lo tắm rửa, ăn uống xong nhìn đồng hồ đã quá 12 giờ khuya. Vợ chồng tôi chỉ chợp mắt được 5 tiếng là phải dậy để lo cho con cái đi học, rồi đi làm”, chị Xuyến tâm sự.
Tất cả vì tương lai con cái
Với nhiều phụ nữ dù làm thêm vất vả nhưng vẫn cố gắng cật lực vì dù sao họ cũng may mắn hơn nhiều người là tìm kiếm được công việc làm phù hợp với hoàn cảnh, thời gian.
Hàng ngày, sau giờ làm bánh tráng cho một xưởng sản xuất bánh tráng tại TP Quy Nhơn, chị Nguyễn Thị Châu ở phường Ghềnh Ráng, TP Quy Nhơn lại chọn một góc vỉa hè gần Trường ĐH Quy Nhơn để bán hàng lưu niệm cho sinh viên. Bao nhiều tiền kiếm được, chị chỉ dành cho mình phần nhỏ để trang trải cuộc sống, còn lại gởi hết cho đứa con gái đang học năm thứ 3 trường ĐH Ngoại thương TP Hồ Chí Minh. Chị Châu tâm sự: “Nhiều khi đi làm ở xưởng về đến nhà mệt rã rời, chỉ muốn được nghỉ ngơi nhưng phải còng lưng, đội mưa, gió bán hàng. Nhưng nếu không làm thêm thì làm sao đủ tiền nuôi con học đại học. Tôi chỉ mong mình có sức khỏe dẻo dai để có thể làm thêm hai ca trong một ngày”. Trò chuyện với tôi, chị luôn miệng khoe về thành tích học tập loại ưu của con gái ở trường ĐH. Chị hy vọng con chị sẽ có công việc phù hợp, thu nhập cao hơn mình.
Nhìn nụ cười rạng rỡ của chị, tôi nhớ hình ảnh chị Lành nhỏ nhắn nhưng đôi chân thoăn thoắt bước đi khắp mọi ngõ ngách của BVĐK tỉnh. Chị Lành cũng đang nuôi ước mong các con mình sẽ trở thành cử nhân tương lai. Chặng đường ấy kéo dài hơn 10 năm nữa khi đứa con út học xong đại học thì chị cũng ngoài 60 tuổi. Trong BVĐK tỉnh, có khoảng 10 chị em làm thêm như chị Lành hoặc bán vé số, mót ve chai… Giá cả ngày một tăng cao nhưng đồng lương công nhân không đủ trang trải cuộc sống. Những chị em có gia đình, nuôi con ăn học, nhất là đại học thì sẵn sàng làm thêm bất cứ việc gì, miễn là hợp pháp. Sau giờ làm ở các xưởng, những chị em tự “tăng ca” phải ăn vội vàng hộp cơm, thời gian còn lại dành hết để mưu sinh kiếm thêm ít tiền lo cho cuộc sống bản thân, gia đình.
Theo baobinhdinh.com.vn
“Tăng ca” mới đủ sống
Lương thấp, vật giá leo thang, dù phải làm quần quật cả ngày trong xưởng nhưng cuộc sống của nhiều nữ công nhân vẫn quá khó khăn, chật vật. Để cải thiện cuộc sống, họ phải tự “tăng ca” sau giờ làm bằng nhiều nghề .
Sáng nào cũng vậy, sau khi bàn giao công việc quét rác, chị Nguyễn Thị Lành, phường Hải Cảng, TP Quy Nhơn, lật đật trở về nhà mở nồi khoai lang đã luộc sẵn, đi lấy dừa, nước đậu cho vào hai giỏ xách nhựa rồi miệt mài đi khắp các phòng ở BVĐK tỉnh để bán. “Nhà tôi có 3 đứa con, đứa lớn đang học đại học ở TP Hồ Chí Minh, đứa nhỏ nhất mới học lớp 5. Lương công nhân không đủ nuôi 3 con ăn học. Trong khi đó, chồng tôi nghỉ mất sức, lương thấp lại bị tai biến. Gia đình khó khăn quá, tôi chưa biết xoay xở sao thì chị cùng xóm chỉ cho công việc này”, chị Lành tâm sự.
Bán dạo phải đi nhiều, bù lại thu nhập cũng được vài chục ngàn đồng/buổi. Chị Lành chỉ bán vào buổi sáng, buổi trưa về nhà lo cơm nước, việc nhà rồi ngủ bù đến tối lại làm công việc chính là quét rác. “Mới đầu đi bán dạo, tôi không quen, mệt mỏi lắm rồi phải cãi nhau tranh giành chỗ bán, rồi gặp người quen hỏi han đủ thứ, tôi cũng nản lòng. Nhưng nghĩ thương tụi nhỏ và sợ đứa con đang học ở TP Hồ Chí Minh phải nghỉ nửa chừng nên lại gắng gượng”, chị Lành bộc bạch.
May mắn hơn chị Lành, chị Lê Thị Xuyến, ở đường Phạm Ngũ Lão, TP Quy Nhơn mở một quán nhỏ bán trứng vịt lộn, chả ram nướng, chả cuốn, kem plan… tại nhà. Quán của chị chỉ mở sau 5 giờ chiều, có hôm mở trễ hơn vì chị còn phải chờ hết giờ ở xưởng gỗ tại Khu công nghiệp Phú Tài. Việc luộc trứng, lấy các đồ ăn để bán đều do chồng hoặc đứa con gái lớn của chị phụ trách. Các món chấm như ớt tương, muối gừng, nước mắm… chị đã chuẩn bị sẵn từ tối hôm trước. Có hôm, tôi tới mua vài trứng vịt lộn còn thấy chị mặc nguyên bộ quần áo công nhân, quần xắn ngang đầu gối, tất bật ra vào vì quán đông khách. Chị Xuyến kể: “Về nhà, chỉ kịp rửa tay chân là lao vào bán hàng. Vất vả thiệt nhưng có thêm đồng ra đồng vào cho tụi nhỏ đi học, lo cho ba mẹ ở quê…”. Trước đây, khi xưởng gỗ không có hàng làm, mỗi kỳ nghỉ có khi lên đến 2- 3 tháng, chị mới nghĩ ra việc mở thêm quán bán hàng này kiếm thêm thu nhập. Ngờ đâu, quán mở được vài tháng đã có khách quen, thu nhập cũng khá nên cả nhà cố gắng duy trì đến nay đã được 2 năm. “Khi dọn dẹp quán, lo tắm rửa, ăn uống xong nhìn đồng hồ đã quá 12 giờ khuya. Vợ chồng tôi chỉ chợp mắt được 5 tiếng là phải dậy để lo cho con cái đi học, rồi đi làm”, chị Xuyến tâm sự.
Tất cả vì tương lai con cái
Với nhiều phụ nữ dù làm thêm vất vả nhưng vẫn cố gắng cật lực vì dù sao họ cũng may mắn hơn nhiều người là tìm kiếm được công việc làm phù hợp với hoàn cảnh, thời gian.
Hàng ngày, sau giờ làm bánh tráng cho một xưởng sản xuất bánh tráng tại TP Quy Nhơn, chị Nguyễn Thị Châu ở phường Ghềnh Ráng, TP Quy Nhơn lại chọn một góc vỉa hè gần Trường ĐH Quy Nhơn để bán hàng lưu niệm cho sinh viên. Bao nhiều tiền kiếm được, chị chỉ dành cho mình phần nhỏ để trang trải cuộc sống, còn lại gởi hết cho đứa con gái đang học năm thứ 3 trường ĐH Ngoại thương TP Hồ Chí Minh. Chị Châu tâm sự: “Nhiều khi đi làm ở xưởng về đến nhà mệt rã rời, chỉ muốn được nghỉ ngơi nhưng phải còng lưng, đội mưa, gió bán hàng. Nhưng nếu không làm thêm thì làm sao đủ tiền nuôi con học đại học. Tôi chỉ mong mình có sức khỏe dẻo dai để có thể làm thêm hai ca trong một ngày”. Trò chuyện với tôi, chị luôn miệng khoe về thành tích học tập loại ưu của con gái ở trường ĐH. Chị hy vọng con chị sẽ có công việc phù hợp, thu nhập cao hơn mình.
Nhìn nụ cười rạng rỡ của chị, tôi nhớ hình ảnh chị Lành nhỏ nhắn nhưng đôi chân thoăn thoắt bước đi khắp mọi ngõ ngách của BVĐK tỉnh. Chị Lành cũng đang nuôi ước mong các con mình sẽ trở thành cử nhân tương lai. Chặng đường ấy kéo dài hơn 10 năm nữa khi đứa con út học xong đại học thì chị cũng ngoài 60 tuổi. Trong BVĐK tỉnh, có khoảng 10 chị em làm thêm như chị Lành hoặc bán vé số, mót ve chai… Giá cả ngày một tăng cao nhưng đồng lương công nhân không đủ trang trải cuộc sống. Những chị em có gia đình, nuôi con ăn học, nhất là đại học thì sẵn sàng làm thêm bất cứ việc gì, miễn là hợp pháp. Sau giờ làm ở các xưởng, những chị em tự “tăng ca” phải ăn vội vàng hộp cơm, thời gian còn lại dành hết để mưu sinh kiếm thêm ít tiền lo cho cuộc sống bản thân, gia đình.
Theo baobinhdinh.com.vn
Hoạt động xúc tiến thương mại trên địa bàn tỉnh ngày càng được đẩy mạnh.
Hội chợ Hàng Việt Nam chất lượng cao tại Quy Nhơn 2011
Các hoạt động xúc tiến thương mại trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua đã góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh thương mại phát triển sản phẩm mới, quảng bá thương hiệu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tạo nên kênh mua sắm cho người tiêu dùng.
Do tình hình lạm phát tăng cao, việc tăng lãi suất ngân hàng, tỷ giá ngoại tệ,.. các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gặp khó khăn trong tiếp cận vốn vay, thách thức về chi phí đầu vào của một số hàng hoá, nguyên vật liệu thiết yếu phục vụ sản xuất như giá điện, xăng dầu, phân bón... đã tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, nhờ thực hiện tốt các giải pháp Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, Chỉ thị 01/CT-UBND ngày 28/02/2011 của UBND tỉnh Về việc tập trung thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội,hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh vẫn giữ được mức tăng trưởng. Các hoạt động xúc tiến thương mại trên địa bàn đã góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh thương mại phát triển sản phẩm mới, quảng bá thương hiệu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tạo nên kênh mua sắm cho người tiêu dùng.
Năm 2011, Bình Định tổ chức thành công 02 hội chợ cấp quốc gia và cấp tỉnh gồm Hội chợ Triển lãm đồ Gỗ và Lâm sản Việt Nam năm 2011 thuộc Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia năm 2011, Hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao năm 2011; 10 hội chợ, triển lãm thương mại tại các huyện và 05 Phiên chợ hàng Việt về nông thôn góp phần bổ sung lượng hàng hóa tại khu vực nông thôn, đảm bảo bình ổn giá cả thị trường trên địa bàn.
Trong các hoạt động thương mại, đáng chú ý là công tác thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, với hình thức tổ chức Phiên chợ “Đưa hàng Việt về nông thôn”. Qua đó mở ra hướng tiếp cận thị trường mới cho các doanh nghiệp mà chủ yếu là thị trường nông thôn. Chương trình đã thu hút sự quan tâm của người tiêu dùng đối với sản phẩm hàng hoá do Việt Nam sản xuất, tạo cho người tiêu dùng có thói quen mua sắm hàng hóa do Việt Nam sản xuất.
Thực tế cho thấy, việc tham gia và tổ chức các hội chợ, triển lãm thương mại là một trong những giải pháp hiệu quả thúc đẩy hoạt động xúc tiến thương mại phát triển. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại của tỉnh còn bộc lộ hạn chế như: chất lượng tổ chức tham gia các hội chợ, triển lãm thương mại trong và ngoài tỉnh chưa thể hiện được tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, doanh nghiệp trong tỉnh chưa quan tâm nhiều đến quảng bá thương hiệu,..
Nhằm đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại trong những năm tiếp theo, Sở Công Thương đã xây dựng trình UBND tỉnh về dự thảo quy định một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất thuộc làng nghề tham dự hội chợ, triển lãm trong nước và nước ngoài trên cơ sở điều chỉnh, bổ sung chính sách xúc tiến thương mại đã được UBND tỉnh ban hành trước đây;dự thảo quy định một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất tham gia các phiên chợ hàng Việt nhằm thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” của Bộ Chính trị.
Theo http://www.binhdinh.gov.vn
Quy hoạch - Đô thị
Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp tỉnh Bình Định đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 | |
File Size: | 104 kb |
File Type: | doc |
Quy hoạch giao thông vận tải tỉnh Bình Định đến năm 2020 | |
File Size: | 114 kb |
File Type: | doc |
Quy hoạch phát triển ngành Thủy sản tỉnh Bình Định đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 | |
File Size: | 51 kb |
File Type: | doc |
Quy hoạch phát triển ngành nông nghiệp và nông thôn tỉnh Bình Định giai đoạn 2003 - 2010 | |
File Size: | 80 kb |
File Type: | doc |
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Định đến năm 2020 | |
File Size: | 80 kb |
File Type: | doc |
Du lịch
Thiếu hạ tầng, du lịch biển chậm phát triển
Muốn phát triển du lịch (DL) bền vững, điều cần nhất là phải đầu tư cơ sở hạ tầng phù hợp và đồng bộ. Bình Định có tiềm năng phát triển DL biển đảo, song ở tỉnh ta hiện nay việc đầu tư hạ tầng DL biển đảo chưa được như mong muốn…
Thừa tiềm năng, thiếu tiềm lực
DL biển có vai trò quan trọng trong phát triển DL Việt Nam và ngày càng phát triển với tư cách là một trong những ngành kinh tế biển chủ yếu. Tại Hội nghị Quy hoạch Tổng thể phát triển DL Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Tổng Cục trưởng Tổng Cục DL Nguyễn Văn Tuấn khẳng định “DL biển đảo chính là sản phẩm DL số 1 của Việt Nam, kế đó là DL văn hóa và DL sinh thái. Cho nên trong chiến lược phát triển DL mà chúng tôi đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, thì DL biển đảo chính là đối tượng được ưu tiên chú trọng phát triển hàng đầu”.
Do không có cầu tàu nên du khách rất vất vả khi lên - xuống thuyền đi du lịch biển đảo.
- Trong ảnh: Du khách lên thuyền ở Hòn Khô - Nhơn Hải. Ảnh: N.V
Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XVIII của Đảng bộ tỉnh về đầu tư phát triển DL giai đoạn 2011 - 2015 của Tỉnh ủy Bình Định cũng đề cập nhiều đến vấn đề phát triển DL biển. Phấn đấu đến năm 2015 xây dựng hoàn thành, đưa vào hoạt động một số khu DL lớn và các bãi tắm biển: Khu DL Vĩnh Hội, Khu DL Hải Giang, Khu DL Ghềnh Ráng, Khu DL Hòn Ngọc Việt (tuyến ven biển Nhơn Lý - Cát Tiến). Đầu tư chỉnh trang khu vực bãi biển Quy Nhơn (từ Mũi Tấn đến Ghềnh Ráng) đảm bảo xanh, sạch, đẹp, an toàn cho du khách…
Tuy nhiên, muốn phát triển DL biển đảo cần phải có cơ sở hạ tầng thiết yếu và các sản phẩm DL đủ sức thu hút du khách. Bình Định có tiềm năng về DL biển đảo, nhưng chưa hội đủ 2 điều kiện nói trên, nên loại hình DL được xem là thế mạnh này lâu nay còn bỏ ngỏ. Ngoài hệ thống lưu trú ở TP Quy Nhơn đáp ứng được yêu cầu, còn lại các mặt khác đều rất thiếu thốn. Khó khăn lớn nhất là không có cầu tàu ở các điểm xuất phát (TP Quy Nhơn, xã Nhơn Hải, Nhơn Lý…) và điểm đến (các đảo gần bờ thuộc TP Quy Nhơn như Hòn Khô, Hòn Đất, Hòn Sẹo…). Còn tàu thuyền vận chuyển khách cũng rất tạm bợ, chưa đạt tiêu chuẩn.
Vì vậy, hiện nay chỉ có duy nhất Công ty TNHH DL Miền Trung nỗ lực khắc phục nhiều khó khăn để làm tour DL bơi lặn biển ngắm san hô ở khu vực biển Hòn Khô (xã Nhơn Hải - TP Quy Nhơn), tour DL biển Nhơn Lý… Đa số các doanh nghiệp (DN) DL khác thì cho rằng: “Tàu bè ra vào đón-trả khách khó quá, làm sao đưa khách đi DL biển được. Thay vì đưa khách đi biển thì đưa khách đi... nhậu đặc sản biển thôi! Chúng tôi chờ khi nào có cầu cảng phục vụ DL thì sẽ làm tour DL biển đảo”.
Cần đầu tư xây dựng hạ tầng DL biển
Năm DL quốc gia các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ 2011 có chủ đề chính là phát triển DL biển đảo, song chúng ta chưa phát huy được thế mạnh vì hạ tầng DL biển đảo còn yếu kém: không tàu DL, không bến tàu, không dịch vụ…
Ông Huỳnh Cao Nhất, Giám đốc Trung tâm Thông tin xúc tiến du lịch tỉnh:
Với bờ biển dài trên 130 km, có nhiều bãi biển đẹp, nhiều đảo gần bờ, nhiều ghềnh, rạn, vũng, vịnh tạo ra những thắng cảnh đẹp, Bình Định có thế mạnh để phát triển DL biển. Tuy nhiên, đến nay chúng ta vẫn chưa khai thác được nhiều từ thế mạnh tài nguyên này. Theo chúng tôi, muốn khai thác và phát huy tài nguyên biển để phát triển DL, tỉnh và các DN DL phải có sự quyết tâm và phải đầu tư thỏa đáng.
Đối với Nhà nước, cần tập trung nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hệ thống giao thông, điện nước, cầu tàu, bến bãi phù hợp đến các danh lam, thắng cảnh biển, các khu quy hoạch phát triển DL biển… nhằm kích thích đầu tư và đem lại hiệu quả cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào hạ tầng phục vụ lưu trú và các dịch vụ liên quan.
Đối với DN, nhà đầu tư, ngoài việc đầu tư hạ tầng phục vụ lưu trú, nghỉ dưỡng, phải quan tâm tổ chức nhiều tour DL biển, phải mạnh dạn đầu tư trang thiết bị, phương tiện phục vụ các hoạt động dịch vụ đi kèm… để tạo ra nhiều sản phẩm hấp dẫn như: lặn biển, lướt ván, trượt cát, canô dù kéo, câu cá, tham quan khám phá các đảo gần bờ… thì mới tạo được sự hấp dẫn và khai thác tối đa tài nguyên DL biển. Ngành chức năng và các DN cần mạnh dạn liên kết với các công ty tổ chức sự kiện trong và ngoài nước tổ chức một số giải thi đấu thể thao biển: lướt ván, đua thuyền buồm… tại TP Quy Nhơn, từng bước phát triển các môn thể thao này ở Bình Định, từ đó thu hút du khách, thu hút các nhà đầu tư đến với DL biển Bình Định.
Trong chuyến Famtrip tại Bình Định, lãnh đạo các Trung tâm Xúc tiến Du lịch của các tỉnh Tây Nguyên sau khi tham gia tour DL biển Quy Nhơn đã rất thích thú và quyết định sẽ xây dựng tour đưa du khách ở Tây Nguyên xuống “tắm biển” Quy Nhơn, song điều mà họ quan tâm và lo lắng nhất là hạ tầng DL biển đảo của ta hầu như chưa có gì cả. Bến bãi, cầu tàu không có nên việc lên-xuống thuyền rất vất vả, đôi khi nguy hiểm nếu gặp thời tiết biển động, sóng lớn. Tàu thuyền vận chuyển khách DL cũng chưa đạt yêu cầu, chưa đúng tiêu chuẩn, mà còn tạm bợ… Tại cuộc họp bàn liên kết mở tour DL 4 tỉnh gồm Bình Định, Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk do Trung tâm Thông tin xúc tiến DL Bình Định tổ chức, các đại biểu DL Tây Nguyên và đại diện các DN DL trong tỉnh đều có ý kiến đề nghị tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng hạ tầng DL biển…
Theo ông Nguyễn Phạm Kiên Trung, Giám đốc Công ty TNHH DL Miền Trung: Trước mắt, tỉnh nên có những chính sách ngắn hạn như quy hoạch và xây dựng cầu cảng DL cho những loại tàu nhỏ để du khách có thể lên-xuống tàu thuận lợi; có chính sách hỗ trợ cho dự án phát triển đội tàu DL, như tạo nguồn vốn ưu đãi về lãi suất cũng như thời hạn vay để sớm có đội tàu DL đạt tiêu chuẩn…
Có thể thấy rằng, DL biển đảo phát triển không chỉ tạo ra những sản phẩm DL hấp dẫn cho du khách, góp phần phát triển kinh tế và việc làm cho địa phương các xã đảo, mà còn góp phần tích cực trong việc bảo vệ an ninh, chủ quyền biển đảo. Nhằm từng bước phát triển DL biển đảo, Sở VH-TT-DL tỉnh nên nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề còn thiếu, còn vướng mắc để tham mưu cho tỉnh tạo một cú hích đủ mạnh bằng cách đầu tư hạ tầng thiết yếu phục vụ DL biển đảo và chỉ đạo các ngành chức năng tạo cơ chế cụ thể, thuận lợi cho các DN hoạt động phát triển DL biển đảo. Nếu không đầu tư xây dựng hạ tầng thiết yếu phục vụ DL biển đảo thì DL biển đảo ở tỉnh ta vẫn chỉ là… tiềm năng!
Theo baobinhdinh.com.vn
Thừa tiềm năng, thiếu tiềm lực
DL biển có vai trò quan trọng trong phát triển DL Việt Nam và ngày càng phát triển với tư cách là một trong những ngành kinh tế biển chủ yếu. Tại Hội nghị Quy hoạch Tổng thể phát triển DL Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Tổng Cục trưởng Tổng Cục DL Nguyễn Văn Tuấn khẳng định “DL biển đảo chính là sản phẩm DL số 1 của Việt Nam, kế đó là DL văn hóa và DL sinh thái. Cho nên trong chiến lược phát triển DL mà chúng tôi đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, thì DL biển đảo chính là đối tượng được ưu tiên chú trọng phát triển hàng đầu”.
Do không có cầu tàu nên du khách rất vất vả khi lên - xuống thuyền đi du lịch biển đảo.
- Trong ảnh: Du khách lên thuyền ở Hòn Khô - Nhơn Hải. Ảnh: N.V
Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XVIII của Đảng bộ tỉnh về đầu tư phát triển DL giai đoạn 2011 - 2015 của Tỉnh ủy Bình Định cũng đề cập nhiều đến vấn đề phát triển DL biển. Phấn đấu đến năm 2015 xây dựng hoàn thành, đưa vào hoạt động một số khu DL lớn và các bãi tắm biển: Khu DL Vĩnh Hội, Khu DL Hải Giang, Khu DL Ghềnh Ráng, Khu DL Hòn Ngọc Việt (tuyến ven biển Nhơn Lý - Cát Tiến). Đầu tư chỉnh trang khu vực bãi biển Quy Nhơn (từ Mũi Tấn đến Ghềnh Ráng) đảm bảo xanh, sạch, đẹp, an toàn cho du khách…
Tuy nhiên, muốn phát triển DL biển đảo cần phải có cơ sở hạ tầng thiết yếu và các sản phẩm DL đủ sức thu hút du khách. Bình Định có tiềm năng về DL biển đảo, nhưng chưa hội đủ 2 điều kiện nói trên, nên loại hình DL được xem là thế mạnh này lâu nay còn bỏ ngỏ. Ngoài hệ thống lưu trú ở TP Quy Nhơn đáp ứng được yêu cầu, còn lại các mặt khác đều rất thiếu thốn. Khó khăn lớn nhất là không có cầu tàu ở các điểm xuất phát (TP Quy Nhơn, xã Nhơn Hải, Nhơn Lý…) và điểm đến (các đảo gần bờ thuộc TP Quy Nhơn như Hòn Khô, Hòn Đất, Hòn Sẹo…). Còn tàu thuyền vận chuyển khách cũng rất tạm bợ, chưa đạt tiêu chuẩn.
Vì vậy, hiện nay chỉ có duy nhất Công ty TNHH DL Miền Trung nỗ lực khắc phục nhiều khó khăn để làm tour DL bơi lặn biển ngắm san hô ở khu vực biển Hòn Khô (xã Nhơn Hải - TP Quy Nhơn), tour DL biển Nhơn Lý… Đa số các doanh nghiệp (DN) DL khác thì cho rằng: “Tàu bè ra vào đón-trả khách khó quá, làm sao đưa khách đi DL biển được. Thay vì đưa khách đi biển thì đưa khách đi... nhậu đặc sản biển thôi! Chúng tôi chờ khi nào có cầu cảng phục vụ DL thì sẽ làm tour DL biển đảo”.
Cần đầu tư xây dựng hạ tầng DL biển
Năm DL quốc gia các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ 2011 có chủ đề chính là phát triển DL biển đảo, song chúng ta chưa phát huy được thế mạnh vì hạ tầng DL biển đảo còn yếu kém: không tàu DL, không bến tàu, không dịch vụ…
Ông Huỳnh Cao Nhất, Giám đốc Trung tâm Thông tin xúc tiến du lịch tỉnh:
Với bờ biển dài trên 130 km, có nhiều bãi biển đẹp, nhiều đảo gần bờ, nhiều ghềnh, rạn, vũng, vịnh tạo ra những thắng cảnh đẹp, Bình Định có thế mạnh để phát triển DL biển. Tuy nhiên, đến nay chúng ta vẫn chưa khai thác được nhiều từ thế mạnh tài nguyên này. Theo chúng tôi, muốn khai thác và phát huy tài nguyên biển để phát triển DL, tỉnh và các DN DL phải có sự quyết tâm và phải đầu tư thỏa đáng.
Đối với Nhà nước, cần tập trung nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hệ thống giao thông, điện nước, cầu tàu, bến bãi phù hợp đến các danh lam, thắng cảnh biển, các khu quy hoạch phát triển DL biển… nhằm kích thích đầu tư và đem lại hiệu quả cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào hạ tầng phục vụ lưu trú và các dịch vụ liên quan.
Đối với DN, nhà đầu tư, ngoài việc đầu tư hạ tầng phục vụ lưu trú, nghỉ dưỡng, phải quan tâm tổ chức nhiều tour DL biển, phải mạnh dạn đầu tư trang thiết bị, phương tiện phục vụ các hoạt động dịch vụ đi kèm… để tạo ra nhiều sản phẩm hấp dẫn như: lặn biển, lướt ván, trượt cát, canô dù kéo, câu cá, tham quan khám phá các đảo gần bờ… thì mới tạo được sự hấp dẫn và khai thác tối đa tài nguyên DL biển. Ngành chức năng và các DN cần mạnh dạn liên kết với các công ty tổ chức sự kiện trong và ngoài nước tổ chức một số giải thi đấu thể thao biển: lướt ván, đua thuyền buồm… tại TP Quy Nhơn, từng bước phát triển các môn thể thao này ở Bình Định, từ đó thu hút du khách, thu hút các nhà đầu tư đến với DL biển Bình Định.
Trong chuyến Famtrip tại Bình Định, lãnh đạo các Trung tâm Xúc tiến Du lịch của các tỉnh Tây Nguyên sau khi tham gia tour DL biển Quy Nhơn đã rất thích thú và quyết định sẽ xây dựng tour đưa du khách ở Tây Nguyên xuống “tắm biển” Quy Nhơn, song điều mà họ quan tâm và lo lắng nhất là hạ tầng DL biển đảo của ta hầu như chưa có gì cả. Bến bãi, cầu tàu không có nên việc lên-xuống thuyền rất vất vả, đôi khi nguy hiểm nếu gặp thời tiết biển động, sóng lớn. Tàu thuyền vận chuyển khách DL cũng chưa đạt yêu cầu, chưa đúng tiêu chuẩn, mà còn tạm bợ… Tại cuộc họp bàn liên kết mở tour DL 4 tỉnh gồm Bình Định, Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk do Trung tâm Thông tin xúc tiến DL Bình Định tổ chức, các đại biểu DL Tây Nguyên và đại diện các DN DL trong tỉnh đều có ý kiến đề nghị tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng hạ tầng DL biển…
Theo ông Nguyễn Phạm Kiên Trung, Giám đốc Công ty TNHH DL Miền Trung: Trước mắt, tỉnh nên có những chính sách ngắn hạn như quy hoạch và xây dựng cầu cảng DL cho những loại tàu nhỏ để du khách có thể lên-xuống tàu thuận lợi; có chính sách hỗ trợ cho dự án phát triển đội tàu DL, như tạo nguồn vốn ưu đãi về lãi suất cũng như thời hạn vay để sớm có đội tàu DL đạt tiêu chuẩn…
Có thể thấy rằng, DL biển đảo phát triển không chỉ tạo ra những sản phẩm DL hấp dẫn cho du khách, góp phần phát triển kinh tế và việc làm cho địa phương các xã đảo, mà còn góp phần tích cực trong việc bảo vệ an ninh, chủ quyền biển đảo. Nhằm từng bước phát triển DL biển đảo, Sở VH-TT-DL tỉnh nên nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề còn thiếu, còn vướng mắc để tham mưu cho tỉnh tạo một cú hích đủ mạnh bằng cách đầu tư hạ tầng thiết yếu phục vụ DL biển đảo và chỉ đạo các ngành chức năng tạo cơ chế cụ thể, thuận lợi cho các DN hoạt động phát triển DL biển đảo. Nếu không đầu tư xây dựng hạ tầng thiết yếu phục vụ DL biển đảo thì DL biển đảo ở tỉnh ta vẫn chỉ là… tiềm năng!
Theo baobinhdinh.com.vn